Tin tức
on Thursday 15-05-2025 1:19pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Vũ Thu Hằng – IVFQN, Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh
Giới thiệu
Không bào là một bất thường tế bào chất phổ biến ở noãn và phôi người, chúng là những cấu trúc tế bào hình túi chứa dịch, có thể hình thành tự nhiên hoặc từ sự kết hợp của các túi có nguồn gốc từ bộ máy Golgi hoặc màng lưới nội chất trơn. Có ba loại không bào: (1) có sẵn trong quá trình thu thập noãn bào, (2) hình thành do tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), và (3) liên quan đến sự ngừng phát triển của phôi.
Không bào có thể là dấu hiệu của stress ở noãn và phôi tiền làm tổ, với tỷ lệ xuất hiện khoảng 5% ở noãn. Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng bất thường tế bào chất có thể xảy ra trong quá trình trưởng thành của noãn và ảnh hưởng xấu đến quá trình thụ tinh. Nếu noãn ở kỳ giữa giảm phân II có không bào được thụ tinh, chúng có thể bị giảm phân cắt hoặc ngừng phát triển. Tỷ lệ không bào tăng cao vào ngày thứ 4 của phôi (tần suất xuất hiện không bào khoảng 11%), vào thời điểm này số lượng và kích thước của không bào có xu hướng lớn hơn và có thể hòa vào chung với khối nén của phôi.
Mặc dù không bào đã được nghiên cứu kỹ ở noãn người, nhưng kiến thức về tỷ lệ xuất hiện và vai trò của chúng trong sự phát triển của phôi còn hạn chế. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa sự hiện diện của không bào và giảm hình thành phôi nang, cũng như tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt thấp hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu sự hình thành tự nhiên của không bào có tương quan với tỷ lệ phôi nguyên bội và dẫn đến kết quả sinh sản kém hay không. Nghiên cứu này được thực hiện để kiểm tra giả thuyết rằng sự hiện diện của không bào ở phôi có thể liên quan đến phôi nang lệch bội.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu, phân tích dữ liệu trên 3351 phôi nang của 826 bệnh nhân tại một trung tâm hỗ trợ sinh sản trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 7 năm 2020. Các phôi nang này đều trải qua xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể (PGT-A).
Các nhà nghiên cứu quan sát sự hiện diện của không bào trong tế bào lá nuôi (trophectoderm) hoặc khối tế bào bên trong (inner cell mass) của phôi nang. Sau đó, phôi nang được trữ đông và chỉ có các phôi nang nguyên bội (mang số lượng nhiễm sắc thể bình thường) được chuyển vào buồng tử cung của bệnh nhân trong một chu kỳ điều trị tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu chính bao gồm tỷ lệ phôi nang nguyên bội và tỷ lệ sinh sống, và các nhà nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy logistic để phân tích mối liên hệ giữa kết quả này và sự hiện diện của không bào.
Kết quả
Nghiên cứu này đã thu thập dữ liệu từ 3351 phôi nang của 826 bệnh nhân, trong đó 903 phôi nang (tần suất 26,9%) được phát hiện có xuất hiện không bào. Không có mối liên hệ nào được tìm thấy giữa tuổi của bệnh nhân nữ và sự xuất hiện của không bào.
· Kết quả phôi nguyên bội và các yếu tố liên quan (không bào, tuổi mẹ, chất lượng phôi)
Nhóm phôi nang xuất hiện không bào cho kết quả chẩn đoán di truyền tiền làm tổ sau khi sinh thiết tế bào lá nuôi có tỷ lệ nguyên bội thấp hơn đáng kể so với nhóm không có không bào (28,8% so với 35,5%, P < 0,001). Phôi có không bào cũng có xu hướng mang chất lượng hình thái kém cao hơn (30,6%) so với phôi không có không bào (18,2%, P < 0,001).
Phân tích hồi quy logistic cho thấy tỷ lệ phôi nguyên bội cao hơn ở nhóm phôi không có không bào (OR = 1,363, KTC 95%: 1,155 – 1,610, P < 0,001). Phụ nữ dưới 38 tuổi cũng có liên quan đến khả năng tạo phôi nguyên bội cao hơn gấp đôi so với phụ nữ từ 38 tuổi trở lên (OR = 2,033, KTC 95%: 1,732 – 2,386, P < 0,001). Phôi nang chất lượng tốt cũng có tỷ lệ nguyên bội cao hơn so với phôi nang chất lượng kém (OR = 1,833, KTC 95%: 1,518 – 2,214, P < 0,001). Sau khi điều chỉnh các yếu tố, các chỉ số này vẫn duy trì ý nghĩa tiên lượng (P < 0,01). Tóm lại, sự hiện diện của không bào, tuổi mẹ và chất lượng phôi có khả năng dự đoán khả năng tạo phôi nguyên bội.
· Kết quả lâm sàng sau chuyển đơn phôi nguyên bội
Nghiên cứu cũng đánh giá ảnh hưởng của không bào đến kết quả chuyển đơn phôi nang trong 167 chu kỳ. Trong số 167 phôi nang nguyên bội được chuyển vào buồng tử cung, 31 phôi nang có không bào và 136 phôi nang không có. Tuổi tác, chỉ số khối cơ thể (BMI), nguyên nhân vô sinh, hormone chống Müller (AMH), phương pháp thụ tinh, chuẩn bị nội mạc tử cung và độ dày nội mạc tử cung không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm có và không có không bào. Tuy nhiên, tỷ lệ làm tổ (40,6% so với 52,7%) và tỷ lệ sinh sống (31,3% so với 48,6%) thấp hơn đáng kể ở nhóm phôi nang có không bào. Tỷ lệ sảy thai (23,1% so với 7,7%) không khác biệt đáng kể giữa hai nhóm.
Phân tích hồi quy logistic cũng cho thấy tỷ lệ sinh sống cao hơn đáng kể ở nhóm phôi nguyên bội không có không bào (OR = 2,670, KTC 95%: 1,147 – 6,218; P = 0,023). Sau khi điều chỉnh, không bào vẫn có khả năng tiên đoán độc lập (OR = 2,792, KTC 95%: 1,180 – 6,608; P = 0,020). Tóm lại, tỷ lệ sinh sống sau chuyển đơn phôi nang nguyên bội có liên quan chặt chẽ đến sự vắng mặt của không bào trong phôi.
Bàn luận
Không bào là một dấu hiệu bất thường tế bào chất thường thấy ở tế bào noãn trưởng thành và phôi người trong IVF. Sự xuất hiện của không bào có thể gây trở ngại cho các cơ chế phát triển của phôi, dẫn đến giảm tỷ lệ sống sau khi rã đông, tỷ lệ thụ tinh, và giảm sự hình thành phôi nang chất lượng tốt, từ đó làm hạn chế tỷ lệ thai lâm sàng. Trong khi đó, lệch bội là một dạng bất thường số lượng nhiễm sắc thể phổ biến, là nguyên nhân di truyền hàng đầu gây ra sẩy thai và dị tật bẩm sinh. Để bảo vệ tế bào, các cơ chế như sửa chữa DNA hoặc tự thực bào (autophagy) được kích hoạt để loại bỏ các tế bào lệch bội, và không bào có thể là dấu hiệu của quá trình này.
Kết luận
Sự hình thành không bào trong phôi nang có liên quan tiêu cực đến sự hình thành phôi nguyên bội và tỷ lệ sinh sống thấp hơn. Do đó, theo kết quả của nghiên cứu này, trong các chu kỳ IVF/ICSI, nên ưu tiên chuyển các phôi nang không có không bào. Như vậy, sự hiện diện của không bào có thể là một dấu ấn sinh học tiềm năng để hỗ trợ việc lựa chọn phôi tốt hơn cho bệnh nhân.
Nguồn tham khảo: Lee Y.J., Lin Y.P., Cheng E.H., Chen C.H., Huang C.C., Lin P.Y., Lee T.H., Lee M.S. The presence of vacuoles in blastocysts is negatively associated with euploidy and live birth rates. Fertility and Sterility. (2023). 120(2), 298-304.
Giới thiệu
Không bào là một bất thường tế bào chất phổ biến ở noãn và phôi người, chúng là những cấu trúc tế bào hình túi chứa dịch, có thể hình thành tự nhiên hoặc từ sự kết hợp của các túi có nguồn gốc từ bộ máy Golgi hoặc màng lưới nội chất trơn. Có ba loại không bào: (1) có sẵn trong quá trình thu thập noãn bào, (2) hình thành do tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), và (3) liên quan đến sự ngừng phát triển của phôi.
Không bào có thể là dấu hiệu của stress ở noãn và phôi tiền làm tổ, với tỷ lệ xuất hiện khoảng 5% ở noãn. Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng bất thường tế bào chất có thể xảy ra trong quá trình trưởng thành của noãn và ảnh hưởng xấu đến quá trình thụ tinh. Nếu noãn ở kỳ giữa giảm phân II có không bào được thụ tinh, chúng có thể bị giảm phân cắt hoặc ngừng phát triển. Tỷ lệ không bào tăng cao vào ngày thứ 4 của phôi (tần suất xuất hiện không bào khoảng 11%), vào thời điểm này số lượng và kích thước của không bào có xu hướng lớn hơn và có thể hòa vào chung với khối nén của phôi.
Mặc dù không bào đã được nghiên cứu kỹ ở noãn người, nhưng kiến thức về tỷ lệ xuất hiện và vai trò của chúng trong sự phát triển của phôi còn hạn chế. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa sự hiện diện của không bào và giảm hình thành phôi nang, cũng như tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt thấp hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu sự hình thành tự nhiên của không bào có tương quan với tỷ lệ phôi nguyên bội và dẫn đến kết quả sinh sản kém hay không. Nghiên cứu này được thực hiện để kiểm tra giả thuyết rằng sự hiện diện của không bào ở phôi có thể liên quan đến phôi nang lệch bội.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu, phân tích dữ liệu trên 3351 phôi nang của 826 bệnh nhân tại một trung tâm hỗ trợ sinh sản trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 7 năm 2020. Các phôi nang này đều trải qua xét nghiệm di truyền tiền làm tổ để sàng lọc bất thường nhiễm sắc thể (PGT-A).
Các nhà nghiên cứu quan sát sự hiện diện của không bào trong tế bào lá nuôi (trophectoderm) hoặc khối tế bào bên trong (inner cell mass) của phôi nang. Sau đó, phôi nang được trữ đông và chỉ có các phôi nang nguyên bội (mang số lượng nhiễm sắc thể bình thường) được chuyển vào buồng tử cung của bệnh nhân trong một chu kỳ điều trị tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu chính bao gồm tỷ lệ phôi nang nguyên bội và tỷ lệ sinh sống, và các nhà nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy logistic để phân tích mối liên hệ giữa kết quả này và sự hiện diện của không bào.
Kết quả
Nghiên cứu này đã thu thập dữ liệu từ 3351 phôi nang của 826 bệnh nhân, trong đó 903 phôi nang (tần suất 26,9%) được phát hiện có xuất hiện không bào. Không có mối liên hệ nào được tìm thấy giữa tuổi của bệnh nhân nữ và sự xuất hiện của không bào.
· Kết quả phôi nguyên bội và các yếu tố liên quan (không bào, tuổi mẹ, chất lượng phôi)
Nhóm phôi nang xuất hiện không bào cho kết quả chẩn đoán di truyền tiền làm tổ sau khi sinh thiết tế bào lá nuôi có tỷ lệ nguyên bội thấp hơn đáng kể so với nhóm không có không bào (28,8% so với 35,5%, P < 0,001). Phôi có không bào cũng có xu hướng mang chất lượng hình thái kém cao hơn (30,6%) so với phôi không có không bào (18,2%, P < 0,001).
Phân tích hồi quy logistic cho thấy tỷ lệ phôi nguyên bội cao hơn ở nhóm phôi không có không bào (OR = 1,363, KTC 95%: 1,155 – 1,610, P < 0,001). Phụ nữ dưới 38 tuổi cũng có liên quan đến khả năng tạo phôi nguyên bội cao hơn gấp đôi so với phụ nữ từ 38 tuổi trở lên (OR = 2,033, KTC 95%: 1,732 – 2,386, P < 0,001). Phôi nang chất lượng tốt cũng có tỷ lệ nguyên bội cao hơn so với phôi nang chất lượng kém (OR = 1,833, KTC 95%: 1,518 – 2,214, P < 0,001). Sau khi điều chỉnh các yếu tố, các chỉ số này vẫn duy trì ý nghĩa tiên lượng (P < 0,01). Tóm lại, sự hiện diện của không bào, tuổi mẹ và chất lượng phôi có khả năng dự đoán khả năng tạo phôi nguyên bội.
· Kết quả lâm sàng sau chuyển đơn phôi nguyên bội
Nghiên cứu cũng đánh giá ảnh hưởng của không bào đến kết quả chuyển đơn phôi nang trong 167 chu kỳ. Trong số 167 phôi nang nguyên bội được chuyển vào buồng tử cung, 31 phôi nang có không bào và 136 phôi nang không có. Tuổi tác, chỉ số khối cơ thể (BMI), nguyên nhân vô sinh, hormone chống Müller (AMH), phương pháp thụ tinh, chuẩn bị nội mạc tử cung và độ dày nội mạc tử cung không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm có và không có không bào. Tuy nhiên, tỷ lệ làm tổ (40,6% so với 52,7%) và tỷ lệ sinh sống (31,3% so với 48,6%) thấp hơn đáng kể ở nhóm phôi nang có không bào. Tỷ lệ sảy thai (23,1% so với 7,7%) không khác biệt đáng kể giữa hai nhóm.
Phân tích hồi quy logistic cũng cho thấy tỷ lệ sinh sống cao hơn đáng kể ở nhóm phôi nguyên bội không có không bào (OR = 2,670, KTC 95%: 1,147 – 6,218; P = 0,023). Sau khi điều chỉnh, không bào vẫn có khả năng tiên đoán độc lập (OR = 2,792, KTC 95%: 1,180 – 6,608; P = 0,020). Tóm lại, tỷ lệ sinh sống sau chuyển đơn phôi nang nguyên bội có liên quan chặt chẽ đến sự vắng mặt của không bào trong phôi.
Bàn luận
Không bào là một dấu hiệu bất thường tế bào chất thường thấy ở tế bào noãn trưởng thành và phôi người trong IVF. Sự xuất hiện của không bào có thể gây trở ngại cho các cơ chế phát triển của phôi, dẫn đến giảm tỷ lệ sống sau khi rã đông, tỷ lệ thụ tinh, và giảm sự hình thành phôi nang chất lượng tốt, từ đó làm hạn chế tỷ lệ thai lâm sàng. Trong khi đó, lệch bội là một dạng bất thường số lượng nhiễm sắc thể phổ biến, là nguyên nhân di truyền hàng đầu gây ra sẩy thai và dị tật bẩm sinh. Để bảo vệ tế bào, các cơ chế như sửa chữa DNA hoặc tự thực bào (autophagy) được kích hoạt để loại bỏ các tế bào lệch bội, và không bào có thể là dấu hiệu của quá trình này.
Kết luận
Sự hình thành không bào trong phôi nang có liên quan tiêu cực đến sự hình thành phôi nguyên bội và tỷ lệ sinh sống thấp hơn. Do đó, theo kết quả của nghiên cứu này, trong các chu kỳ IVF/ICSI, nên ưu tiên chuyển các phôi nang không có không bào. Như vậy, sự hiện diện của không bào có thể là một dấu ấn sinh học tiềm năng để hỗ trợ việc lựa chọn phôi tốt hơn cho bệnh nhân.
Nguồn tham khảo: Lee Y.J., Lin Y.P., Cheng E.H., Chen C.H., Huang C.C., Lin P.Y., Lee T.H., Lee M.S. The presence of vacuoles in blastocysts is negatively associated with euploidy and live birth rates. Fertility and Sterility. (2023). 120(2), 298-304.
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK